Thứ Năm, 20 tháng 11, 2014

Nâng cao kỹ năng ra quyết định của nhóm

(HR) Các công ty lớn khi xây dựng những sản phẩm mới đều dựa trên dữ liệu đã có và tuân theo một quy trình xác định. Nhưng liệu những nhóm nhỏ hơn khi xây dựng sản phẩm mới cũng làm như vậy ?

"Câu trả lời thực sự là không", Paul, một nhân viên phát triển sản phẩm tại công ty thiết bị y tế US đã nói như vậy. "Nhóm chúng tôi không nghĩ nhiều về quy trình ra quyết định. Tôi cũng không biết chính xác cách tiếp cận nhóm đối với vấn đề sẽ phải như thế nào, mặc dù ngay tại những bước đầu tiên, chúng tôi đã phải tìm một cách truyền thông tốt hơn".

Paul là một trong số những tình nguyện viên cho nghiên cứu về giáo dục quản lý mang tên Babson của chúng tôi. Chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu về các nhóm phát triển sản phẩm tại 21 công ty khoa học và kỹ thuật và chỉ có 6 nhóm hoạt động theo một cách có cấu trúc và hướng dữ liệu trong khi 18 nhóm cho rằng sự thay đổi ở quy mô toàn tổ chức có tác dụng quan trọng hơn hai điều trên.

Tại sao lại có khoảng cách trong dòng dữ liệu giữa tổ chức và nhóm? Mặc dù phân tích của chúng tôi còn rất cơ bản với số lượng mẫu nhỏ, nhưng cũng cho ra tối thiểu 3 câu trả lời cho câu hỏi trên.

Nguyên nhân thứ nhất đến từ quan niệm "làm tới đâu tính tới đó". Ở những giai đoạn đầu tiên các nhóm không thiết lập một quá trình và các tiêu chuẩn chung cho việc ra quyết định. Thay vào đó họ tiếp cận thẳng vào vấn đề và cuối cùng thì các ý kiên quy đồng về một số điểm. Tám trong số những người được phỏng vấn thể hiện sự đồng ý với quan điểm này.

Theo một nhà phát triển phần mềm "quyết định ban đầu được đưa ra bởi rất nhiều người hoặc bởi nhà quản lý chương trình". Nhưng giờ đây, chúng tôi đã sử dụng một quy trình chung giúp chúng tôi có thể thống nhất. Mọi người giờ đều nói "đây là kết quả", "đây là điều mà chúng ta đang nói về". Chúng tôi nắm rõ được mình đang nói về điều gì, ai sẽ làm nó, khi nào họ làm và khi nào chúng tôi sẽ phải đưa ra quyết định việc đó có được làm hay không.

Quan niệm này có nguồn gốc đến từ vấn đề lòng tin. Các nhóm mới tập hợp gồm những lao động trí óc, những nhà khoa học, các kỹ sư vật liệu, thiết kế sản phẩm và những người khác cần có thời gian để các thành viên xây dựng lòng tin với nhau. Một số người được phỏng vấn nói rằng họ muốn quá trình xây dựng lòng tin trong nhóm sẽ diễn ra đồng thời với việc thiết lập một quy trình ra quyết định rõ ràng. Phó chủ tịch phát triển sản phẩm của một công ty đã kể cho chúng tôi về nhóm của ông. Họ đã làm việc với nhau trong nhiều năm.

Tuy nhiên, phải sau một đợt tập huấn do công ty tổ chức "với những bài tập về cách ra quyết định" nhóm của công mới làm quen và có một cách tiếp cận rõ ràng hơn về công nghệ phát triển vi chíp. Đợt đào tạo vốn tập trung vào xây dựng lòng tin và cách ra quyết định "đã nâng cao hiệu năng của nhóm" theo cách mà ông trước đây chưa từng nghĩ đến.

Nguyên nhân thứ hai đến từ vấn đề không có các tiêu chuẩn chung. Các thành viên thiếu chắc chắn về những loại dữ liệu họ sẽ sử dụng. Đôi khi những mối quan hệ chính trị đằng sau cũng là nhân tốt dẫn tới sự không chắc chắn này. Lấy ví dụ, để giải thích tại sao là có việc "thiếu tính ổn định" trong quy trình ra quyết định của nhóm, một kĩ sư điện mô tả nó như một cuộc đua ngựa.

"Những người lãnh đạo công nghệ có tầm nhìn dài hạn khi làm việc với những ý tưởng mới", trong khi "trái lại, những người lãnh đạo kinh doanh có tầm nhìn ngắn hạn hướng tới mục đích đạt được mục tiêu tài chính". Điều đó khiến cho việc quyết   nhân sự   định dựa trên dữ liệu của nhóm anh ta bị thay đổi tùy thuộc vào việc vị lãnh đạo nào có ưu thế hơn.

Trong các trường hợp khác, các nhóm sử dụng rất nhiều công cụ điều khiển chất lượng như sigma, phân tích rủi ro/lợi nhuận, mô hình thất bại và phân tích hiệu quả. Nhưng như 5 trong số những người được hỏi đã xác nhận, các nhóm thường không thống nhất về loại dữ liệu sẽ ảnh hưởng tới quyết định và loại dữ liệu đơn giản chỉ "gây nhiễu".

Nguyên nhân thứ ba đến từ việc không xác định rõ được phương thức. Rốt cục thì, các quá trình đổi mới trên toàn tổ chức đã không làm thay đổi tính chất của nhóm. "Chúng tôi sử dụng quá trình kiểm tra trên toàn công ty, nhưng quá trình ra quyết định của nhóm thì chưa được chuẩn hóa nhiều, một kĩ sư hóa học cao cấp đã đưa ra vấn đề này. Mọi thứ đều dựa nhiều vào người trưởng nhóm".

11 người trong số những người được phỏng vấn cho biết họ thường cung cấp dữ liệu của nhóm cho những người có quyền quyết định, thường là các quản lý cao cấp, trưởng chương trình, hay một nhà khoa học cao cấp. Tuy nhiên, nhiều người trong số họ băn khoăn về việc những thông tin họ cung cấp có được người ra quyết định sử dụng hay không.

Không nhận được phản hồi, các thành viên nhóm sẽ tiếp tục băn khoăn về tính hữu ích của những dữ liệu mà họ cung cấp, liệu nó có giúp tăng lợi nhuận hay năng suất không? liệu nó có giúp công việc tiến triển không? Phê phán về sự thiếu kết nối giữa nhóm và tổ chức, một nhà khoa học trong lĩnh vực hóa-sinh nhấn mạnh "Tôi không thật sự tham gia vào quá trình ra quyết định ở mức cao, vì vậy tôi không thể nói thay cho tổ chức". Không hề có một ý kiến nào ủng hộ cho sự thiếu kết nối này.

Một nhà nghiên cứu dược phẩm chữa ung thư tin rằng công ty của bà đã vượt qua sự thiếu kết nối này. Để ra quyết định, các cuộc họp được tổ chức hàng tuần giữa các phòng và bộ phận khác nhau. Mặc dù chủ yếu quyết định đã được đưa ra bởi lãnh đạo, nhưng những cuộc họp này đã "tạo ra thảo luận mở, khiến mọi người thấy họ đã đóng góp như thế nào, ý kiến của họ đã tác động tới quyết định cuối cùng như thế nào?"

Tuy nhiên, trường hợp tại công ty của bà là một ngoại lệ, ít nhất trong số những ví dụ của chúng ta.

Một phương thức để vượt qua tình trạng thiếu dữ liệu và cấu trúc của các nhóm phát triển sản phẩm là bỏ phiếu. Một vài người trả lời phỏng vấn cho biết họ đã bắt đầu sử dụng việc bỏ phiếu điện tử để giải quyết một số vấn đề được mô tả ở trên. Lấy ví dụ, một kĩ sư công nghệ đã nói với chúng rằng bỏ phiếu không chỉ để mọi người hiểu cảm giác được tham gia vào nhóm, và cũng có chức năng đưa ra quyết định".

Để đưa ra quyết định đúng thời hạn, nhóm cần bỏ phiếu, nhưng "nhóm không thể bỏ phiếu khi chưa có đủ một lượng dữ liệu thích hợp nào đó được thu thập". Ông cũng thừa nhận rằng có sự linh hoạt trong cách hiểu "thích hợp" là như thế nào ?

Bỏ phiếu cũng nhấn mạnh mối liên hệ giữa quá trình ra quyết định nhóm với quá trình cách mạng tổ chức, làm cho dữ liệu liên quan rõ ràng và được văn bản hóa. "Người ta bỏ phiếu với nhiều tiêu chí khác nhau. Đâu là vấn đề chính? Vấn đề nào nên được coi trọng hơn trong quá trình ra quyết định?" một kĩ sư đã nói như vậy.

Giờ bạn đã tin rằng cố thể cải thiện quy trình ra quyết định liên quan tới sản phẩm mới của nhóm mình chứ?

Bài viết của H. James Wilson trên Harvard Business Publishing. Tác giả là nhà nghiên cứu và nhà văn cao cấp tại Babson Executive Education ở Wellesley, MA. - Quantri.Vn

Quyết loại nhân sự bảo hiểm bị sa thải khỏi thị trường

(ĐTCK) Loan báo thông tin về các quyết định sa thải nhân sự sai phạm, luật hóa quy định liên quan đến sa thải là những động thái cho cho thấy nỗ lực loại nhân sự bảo hiểm bị sa thải ra khỏi thị trường bảo hiểm Việt.

Đăng tên nhân sự bị sa thải trên website

Hai quyết định sa thải mới nhất vừa được các thành viên thị trường phát đi thông tin là trường hợp sa thải cán bộ tại Tổng CTCP Bảo hiểm Xuân Thành và CTCP Bảo hiểm Petrolimex (PJICO).

Theo đó, ông Đặng Văn Danh và ông Bùi Quốc Tuấn là nhân viên phòng Kế toán tổng hợp thuộc CTCP Bảo hiểm Xuân Thành Sài Gòn bị sa thải do vi phạm kỷ luật lao động.

Một quyết định sa thải khác là đối với ông Đặng Quốc Trình, Trưởng phòng kinh doanh Công ty bảo hiểm PJICO Tuyên Quang do vi phạm quy trình quản lý nghiệp vụ bảo hiểm xe cơ giới, đặc biệt trong việc giải quyết bồi thường cho khách hàng; nâng giá sửa chữa và các hạng mục vật tư khi sửa chữa cho khách hàng để trục lợi; không thực hiện việc thu hồi vật tư cũ và tiến hành thanh lý theo quy định.

Ngay sau khi ra quyết định sa thải cán bộ do sai phạm và gửi thông tin cho Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam (AVI), AVI cũng đã nhanh chóng ra công văn gửi các DNBH thông báo về kỷ luật sa thải trên. Sau đó, các DNBH cũng nhanh chóng cảnh báo cho các đơn vị thành viên.

Tại ABIC, công văn gửi các chi nhánh trực thuộc hệ thống về việc cảnh báo nhân sự bị sa thải của 2 đơn vị trên do đích thân bà Hoàng Thị Tính, Tổng giám đốc Công ty ký đã được đăng công khai trên website Công ty.

Theo đó, Tổng giám đốc ABIC yêu cầu các chi nhánh trực thuộc lưu ý không tuyển dụng các trường hợp có tên nêu trên, đồng thời có biện pháp nhắc nhở, cảnh báo việc tuân thủ đúng các nội dung, quy định, quy trình quản lý nghiệp vụ nhằm ngăn chặn những hành vi vi phạm của cán bộ nhân viên của từng đơn vị trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm, đặc biệt là quá trình giải quyết bồi thường cho khách hàng.

Đây không phải lần đầu AVI ra công văn cảnh báo nhân sự bị sa thải gửi DNBH và cũng không phải lần đầu DNBH thông báo cho các đơn vị trực thuộc. Tuy nhiên, việc thông tin nhanh không chỉ qua đường công văn gửi trực tiếp cho các đơn vị mà còn trên cả website Công ty đang cho thấy nỗ lực quyết loại nhân sự bảo hiểm bị sa thải của cả thị trường, mặc dù việc này chưa được quy định pháp lý điều chỉnh.



Luật hóa khái niệm”nhân sự bảo hiểm bị sa thải”

Gần đây, một số quy định mới đã được bổ sung nhằm hoàn thiện hệ thống văn bản pháp lý trong lĩnh vực bảo hiểm, thể hiện sự tiến bộ và mong muốn làm trong sạch thị trường.

Cụ thể, Dự thảo Thông tư sửa đổi Thông tư 124/2012/TT-BTC cũng đã bổ sung quy định “Các DNBH, chi nhánh nước ngoài không được giao kết hợp đồng với cá nhân đã từng bị DNBH khác buộc chấm dứt hợp đồng lao động do vi phạm quy định của pháp luật về kinh doanh bảo hiểm trong thời hạn 6 tháng kể từ ngày chấm dứt hợp đồng lao động. Khi buộc chấm dứt hợp đồng lao động với lý do nêu trên, DNBH thông báo cho Bộ Tài chính và AVI. AVI thông báo cho cho các DNBH khác biết”.

Không chỉ với nhân sự của các DNBH, đại lý bảo hiểm bị sa thải cũng vào tầm ngắm của Dự thảo Thông tư trên. Theo đó, Dự thảo Thông tư đã bổ sung quy định “Các DNBH không được giao kết hợp đồng với đại lý bảo hiểm đã từng bị DNBH khác buộc chấm dứt hợp đồng đại lý do vi phạm quy định pháp luật về kinh doanh bảo hiểm trong thời hạn 6 tháng kể từ ngày chấm dứt hợp đồng đại lý.

Tuy nhiên, một số DNBH đề xuất làm chặt hơn các quy định sửa đổi bổ sung. Cụ thể, theo VNI, cần bổ sung cả các trường hợp cán bộ có vi phạm quy định của pháp luật về kinh doanh bảo hiểm, không bàn giao công việc và thanh quyết toán công nợ nhưng tự ý nghỉ việc vì những trường hợp này hiện nay khá phổ biến nhưng doanh nghiệp không thể chấm dứt hợp đồng lao động được.

Hay theo Bảo Minh, PTI, nếu chỉ quy định ”bị DNBH khác buộc chấm dứt hợp đồng lao động” là không rõ nghĩa, không phù hợp với quy định của Bộ luật Lao động. Dự thảo cần quy định cụ thể trường hợp cá nhân bị buộc chấm dứt hợp đồng lao động theo trường hợp quy định tại khoản 8 điều 36 Bộ luật Lao động 2012.

Về phần mình, AVI cũng nhất trí rằng, do khái niệm “vi phạm quy định của pháp luật về kinh doanh bảo hiểm” tương đối rộng, có những vi phạm chỉ ở mức kiểm điểm, khiển trách, cảnh cáo, chưa đến mức buộc chấm dứt hợp đồng lao động - nhưng nếu vì yếu tố cá nhân lãnh đạo DNBH kiên quyết tìm cách sa thải và thị trường bị quy định không được tiếp nhận lao động trong 6 tháng thì sẽ ảnh hưởng rất lớn đến quyền được lao động và quyền lợi của người lao động. Vì vậy, AVI đã kiến nghị quy định cụ thể hơn về vấn đề này.

Kim Lan

1 nhận xét :

  1. Với sự phát triển của thương mại điện tử, quý khách hàng muốn mua những mặt hàng tại Nhật Bản. Nhưng vì khoảng cách, thời gian, tiền bạc, những điều bất thuận lợi làm quý khách không thể mua được những món hàng tại xứ sở hoa anh đào này. Vậy hãy sử dụng:
    ship đồ từ nhật về việt nam
    dịch vụ ship hàng từ nhật về việt nam
    nhận ship hàng từ nhật về tphcm
    nhận ship hàng từ nhật về hà nội
    nhận ship hàng từ nhật về việt nam
    dịch vụ vận chuyển hàng từ nhật về việt nam
    . Dịch vụ mua hàng - order hàng -chuyển hàng từ Nhật về Việt Nam nhanh chóng, an toàn, tiết kiệm được nhiều chi phí.
    Hoặc quý khách có thể sử dụng dịch vụ fado mua sắm các mặt hàng tại amazon Nhật hoặc Mỹ.

    Trả lờiXóa